Những bí mật chưa kể về Phổ Nghi – Hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh

  • Tên đầy đủ: Ái Tân Giác La Phổ Nghi
  • Quốc tịch: Trung Quốc
  • Ngày sinh: 7 tháng 2, 1906
  • Nơi sinh: Bắc Kinh, Nhà Thanh
  • Ngày mất: 17 tháng 10, 1967 (61 tuổi)
  • Nơi mất: Bắc Kinh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Ái Tân Giác La Phổ Nghi, hay còn được biết đến với niên hiệu Tuyên Thống, là biểu tượng cuối cùng của triều đại Mãn Thanh và lịch sử quân chủ Trung Quốc. Lên ngôi khi chỉ mới 2 tuổi, cuộc đời ông chứa đựng biết bao sóng gió: từ việc thoái vị trong bão táp của Cách mạng Tân Hợi, đến việc trở thành bàn tay của Phát xít Nhật ở Đại Mãn Châu Đế quốc.

Năm 1945, sau những năm dưới quyền Nhật, ông bị Quân đội Xô viết bắt giữ, và sau đó làm chứng trong phiên tòa xét xử tội phạm chiến tranh. Cuộc đời ông tiếp tục trải qua những biến cố khi bị Chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa giam giữ vì liên kết với Nhật. Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 1959, ông được tự do và trở về Bắc Kinh, nơi ông sống như một công dân bình thường cho đến cuối đời.

Mặc dù trong lịch sử, ông còn được gọi là Đại Đồng và Khang Đức khi ở Mãn Châu quốc, nhưng Tuyên Thống vẫn là cái tên gắn liền với hình ảnh của ông. Với việc ký chiếu thư nhường vị, ông còn có tên gọi khác như Tốn Hoàng đế hay Mạt đại Hoàng đế, nhưng dù sao, ông vẫn là biểu tượng cuối cùng của một kỷ nguyên.

Phổ Nghi – biểu tượng cuối cùng của triều đại phong kiến Trung Quốc, đã trải qua một cuộc đời đầy biến động và sóng gió. Từ ngôi vương cao quý, ông trở thành một bóng ma bị lưu đày, rồi lại được đưa lên ngôi bởi quân Nhật. Cuộc đời ông chứa đựng những nỗi buồn, từ việc bị giam giữ đến việc không có người nối dõi, mặc dù ông có tới ba người vợ. Đến cuối đời, ông được chính phủ Trung Quốc đối xử với sự biệt đãi, nhưng những vết thương trong lòng ông có lẽ vẫn chưa bao giờ lành lại. Qua đời vào ngày 17/10/1967, Phổ Nghi để lại một dấu ấn sâu đậm trong lịch sử Trung Quốc.

Phổ Nghi và Lý Thục Hiền
Phổ Nghi và Lý Thục Hiền
Hình chụp vợ chồng Uyển Dung - Phổ Nghi.
Hình chụp vợ chồng Uyển Dung – Phổ Nghi.

Cuốn hồi ký “Nửa đời trước của tôi”

“Nửa đời trước của tôi” – cuốn hồi ký của Phổ Nghi, vị hoàng đế cuối cùng của Trung Quốc, đã trở thành một hiện tượng văn học với hơn 1 triệu 87 vạn bản được tiêu thụ sau 22 lần tái bản. Tác phẩm này không chỉ nổi tiếng ở Trung Quốc mà còn được độc giả ở Đài Loan, Hồng Kông và nhiều quốc gia khác đón nhận.

Tuy nhiên, cuốn sách này cũng trải qua một hành trình đầy sóng gió, giống như số phận của chính tác giả. Chỉ đến lần in gần đây nhất, độc giả mới có cơ hội tiếp cận phiên bản nguyên gốc, mở lời về những bí mật lịch sử chưa từng được tiết lộ.

Nhà xuất bản Quần chúng đã tái bản và phát hành phiên bản mới nhất vào cuối tháng 12/2006, bổ sung 16 vạn chữ đã bị lược bỏ từ trước. Trong đó, một số tình tiết gây sốc như việc Hoàng hậu Uyển Dung có quan hệ ngoại tình và Phổ Nghi, trong cơn ghen, đã thiêu chết đứa trẻ sinh ra từ mối tình này.

Ông Mạnh Hướng Vinh, biên tập viên chính của cuốn sách, tiết lộ rằng bản thảo gốc của Phổ Nghi đã được tìm thấy trong quá trình chỉnh sửa hồ sơ tài liệu. Những tình tiết bị lược bỏ từ phiên bản đầu tiên năm 1964 giờ đây đã được tái hiện, giúp độc giả hiểu rõ hơn về cuộc đời và tâm hồn của vị hoàng đế cuối cùng này.

Một đoạn trong cuốn hồi ký ghi lại: “Tôi chỉ có thể phát tiết nỗi tức giận lên bà ấy” – một câu chuyện đau lòng và đầy xúc động về tình yêu, lòng ghen và sự phản bội.”

Thục Phi Văn Tú
Thục Phi Văn Tú

“Thực ra, chuyện bà ấy (Uyển Dung) hút thuốc phiện là do chủ ý của bố và anh trai, thậm chí trong vấn đề ngoại tình cũng được người anh trai đồng tình, khuyến khích.

Khi tôi hay biết thì đã rất muộn. Lần đi tàu từ Thiên Tân đến Đại Liên, người anh bà ấy vì đánh đổi lợi ích gì đó đã bán em gái mình cho một viên sĩ quan Nhật cùng đi trên tàu.

Năm 1935, khi Uyển Dung đã bụng mang dạ chửa đợi đến ngày lâm bồn thì tôi mới biết chuyện. Tâm trạng của tôi lúc đó rất khó tả. Tôi rất tức giận, nhưng lại không muốn để người Nhật hay biết, nên cách duy nhất là trút giận dữ lên người bà ấy…

Có lẽ cho đến lúc chết Uyển Dung vẫn luôn ngủ mơ và trong giấc mộng ấy, bà mơ thấy con mình vẫn đang sống trên cõi đời này. Bà ấy không biết rằng đứa trẻ vừa sinh ra đã bị quẳng vào lò lửa thiêu chết.

Bà ấy chỉ biết là người anh trai ở ngoài cung đang thay mình nuôi dưỡng con, người anh hàng tháng vẫn được nhận đều đặn từ bà một khoản tiền cấp dưỡng cho con.

Sau “Sự kiện 15/8” thì tôi và bà ấy chia tay nhau. Nghiện ngập nặng, lại thêm sức khoẻ suy yếu vì bệnh tật nên một năm sau thì Uyển Dung qua đời ở Cát Lâm…”.

Cả đời Phổ Nghi có tới 5 vợ. Năm 16 tuổi cưới Hoàng hậu Uyển Dung và Thục phi Văn Tú; Văn Tú ly hôn khi ông lên Đông Bắc theo Nhật. Người vợ thứ ba là “Tường Quý nhân” Đàm Ngọc Linh cưới thời ngụy Mãn Châu. Sau khi Đàm Ngọc Linh bị hại chết, người Nhật lại giới thiệu và cưới cho Phổ Nghi “Phúc Quý nhân” Lý Ngọc Cầm.

Năm 1945 khi bị bắt trên đường trốn sang Nhật, Phổ Nghi không mang theo Lý Ngọc Cầm. Tuy nhiên bà này vẫn bị đưa về Trung Quốc giam giữ rồi ly hôn năm 1957. Năm 1959, Phổ Nghi được chính phủ Trung Quốc sắp xếp cưới bà Lý Thục Hiền – một y tá đã có một lần hôn nhân thất bại.

Có tới 5 vợ, hàng bầy phi tần cung nữ nhưng Phổ Nghi vẫn không có con. Vậy phải chăng ông có vấn đề về khả năng đàn ông? Trong “Nửa đời trước của tôi”, Phổ Nghi đã không giấu giếm khi kể lại: Ông rất ham sắc dục.

Khi mới hơn 10 tuổi, các thái giám để tránh phải hầu hạ vua, tối nào cũng đẩy các cung nữ vào giường ngủ để hầu ông, có khi 2 – 3 cô một tối, họ quần cho ông mệt lử mới để cho ông ngủ.

“Hôm sau dậy tôi hoa mắt chóng mặt, nhìn mặt trời và mọi thứ đều ra màu vàng ệch”. Sau này Phổ Nghi hầu như bị liệt dương, phải thường xuyên tiêm các loại thuốc kích thích có tên Trung Quốc là “Tập bảo mạng”, “An lạc căn” vào mới “lâm trận” được. Thời kỳ sống cùng Lý Ngọc Cầm, ước muốn có con của ông rất mạnh mẽ, ông đã dùng mọi thứ thuốc nhưng vẫn không kết quả.

Để đến được với bạn đọc với bản thảo nguyên vẹn lần này. “Nửa đời trước của tôi” đã phải trải qua số phận khá long đong. Bắt đầu được Phổ Nghi viết từ năm 1951, bản thảo cuốn sách được coi như là bản khai báo với chính quyền trên giấy mực. Đến năm 1964 khi được xuất bản chính thức, khi đến được tay người đọc, “Nửa đời trước của tôi” đã có ba dị bản và 9 lần sửa chữa.

“Bản in roneo”: Vào nửa cuối năm 1957, tại Trại giam tù binh Phủ Thuận của Quân khu Thẩm Dương, cuốn sách “Nửa đời trước của tôi” được in roneo và lưu hành trong Trại với tính chất “Bản hối tội” của tù binh Phổ Nghi được hoàn thành sau một năm rưỡi vùi đầu viết ra giấy, dài 20 vạn chữ.

“Bản bìa xám”: Tháng 1 năm 1960, NXB Quần Chúng đem bản roneo nói trên sắp chữ chì rồi in, đóng bìa màu xám nên còn có tên “Bản bìa xám”. Cuốn sách được in và bán hạn chế trong các cơ quan thuộc hệ thống chính pháp và giới sử học.

“Bản thảo lần thứ nhất”: Tháng 5 năm 1961, sau khi thỏa thuận với NXB Quần Chúng, Phổ Nghi đã bắt tay viết lại cuốn sách. Đến tháng 6/1962, thì bản thảo lần đầu hoàn thành, được giao cho các chuyên gia và cơ quan chức năng thẩm định.

“Bản thảo lần thứ hai”: Theo ý kiến tu sửa của các chuyên gia, Phổ Nghi và biên tập viên Lý Văn Đạt đã tiến hành tu chỉnh lại bản thảo lần đầu, đến tháng 10/1962 thì in thành Bản chữ to.

Chính thức xuất bản lần đầu: Năm 1963, sau khi tổng hợp ý kiến các phía liên quan, Lý Văn Đạt tiến hành tu chỉnh, sửa chữa lại bản thảo lần hai, đến tháng 11/1963, sau thêm nhiều lần góp ý sửa chữa, bản thảo được thông qua và đến tháng 3/1964 thì “Nửa đời trước của tôi” được chính thức xuất bản.

Một số nét chính trong tiểu sử Phổ Nghi:

Sinh năm 1905, tháng 11/1908, Phổ Nghi được đặt lên ngôi Hoàng đế nhà Thanh, lấy niên hiệu là Tuyên Thống.

Năm 1912, Dân quốc thành lập, Phổ Nghi bị buộc thoái vị nhưng theo điều kiện ưu đãi thì không phải bỏ đế hiệu, vẫn được ở trong cung cấm.

Ngày 1/7/1917, Phổ Nghi nghe theo lời Trương Huân tuyên bố phục hồi đế chế, khôi phục niên hiệu Tuyên Thống, nhưng chỉ trở lại làm vua được 12 ngày rồi lại phải thoái vị do Trương Huân thất bại.

Năm 1924, Phùng Ngọc Tường gây chính biến ở Bắc Kinh. Phổ Nghi bị đuổi khỏi Tử Cấm Thành, sau khi lang thang ở một số nơi, Phổ Nghi chạy vào Công sứ quán Nhật.

Tháng 2/1925, người Nhật bí mật đưa Phổ Nghi tới tô giới Nhật ở Thiên Tân để ông ta khôi phục hoạt động. Năm 1931, quân Nhật đưa ông trốn lên Đông Bắc. Tháng 3/1932, ông trở thành người đứng đầu “Mãn Châu quốc”, tháng 3/1934 đổi thành Hoàng đế “Mãn Châu quốc”, cải hiệu thành Khang Đức.

Sau khi Nhật đầu hàng, ngày 17/8/1945, Phổ Nghi bị Hồng quân Liên Xô bắt giữ trên đường chạy trốn sang Nhật, bị đưa về giam 5 năm trong trại tù binh ở Siberia.

Tháng 8/1950, Phổ Nghi và các tội phạm chiến tranh “Mãn Châu quốc” khác được phía Liên Xô trao cho Trung Quốc, đến tháng 12/1959 thì được tòa án tối cao tuyên bố đặc xá.

Sau khi ra tù, Phổ Nghi được bổ nhiệm làm Ủy viên Ủy ban Văn sử, Hội nghị Chính trị Hiệp thương toàn Trung Quốc (Chính Hiệp); năm 1964 là Ủy viên Chính Hiệp. Ông qua đời ngày 17/10/1967 tại Bắc Kinh vì bệnh.

Thu Thủy – Theo Da Kung Pao

Đánh giá post

Viết một bình luận